THẢM HỌA TRÊN GIÀN KHOAN DẦU OCEAN RANGE

Kỳ 1: Con sóng tử thần

Thứ Sáu, 04/09/2020, 20:24 [GMT+7]
In bài này
.

Từ trước đến nay, các giàn khoan dầu hoạt động ngoài biển luôn phải đối mặt với những thảm họa, và một trong những thảm họa ấy gây ra bởi thời tiết. Ngày 15/2/1982, giàn khoan Ocean Ranger được coi là lớn nhất từ trước đến nay, đã bị lật rồi chìm bởi một con sóng cao 20m, cướp đi sinh mạng của toàn bộ 84 thành viên trên giàn.

Giàn khoan Ocean Ranger trước ngày xảy ra thảm họa.
Giàn khoan Ocean Ranger trước ngày xảy ra thảm họa.

SỰ RA ĐỜI CỦA OCEAN RANGER

Được thiết kế và sở hữu bởi Công ty Ocean Drilling and Exploration Company Inc, trụ sở tại TP.New Orleans, bang Mississpi (Mỹ) và do Tập đoàn Mitsubishi Heavy Industries ở Hiroshima, Nhật Bản, thi công. Giàn khoan Ocean Ranger dài 121m, rộng 80m, cao 103m. Nó có 12 chiếc neo nặng tổng cộng 20.000kg, còn tổng trọng lượng của cả giàn là 25.000 tấn. Ocean Ranger nổi trên 2 chiếc phao dài 120m và chìm dưới mặt nước 24m. Về khả năng hoạt động, Ocean Ranger có thể khoan ở độ sâu tối đa 7.600m. Nó được xem là giàn khoan dầu bán chìm lớn nhất thế giới cho đến ngày nay và được thiết kế để chịu đựng các điều kiện cực kỳ khắc nghiệt trên biển, bao gồm sức gió 190 km/giờ, sóng biển cao 34m. Theo hồ sơ đăng kiểm, Ocean Ranger “được phép hoạt động đại dương không hạn chế”.

Tháng 11/1980, Ocean Ranger với 84 thành viên di chuyển đến vùng biển Grand Banks thuộc địa phận tỉnh Newfoundland, Canada để thực hiện hợp đồng khoan cho Công ty Dầu khí Mobil Oil of Canada tại mỏ Hybernia. Trước đó, nó đã hoạt động ngoài khơi bờ biển Alaska, New Jersey, Mỹ và Ireland. Trong số 84 thành viên trên giàn, có 56 người Canada, phần lớn đều là kỹ sư chuyên về khoan thăm dò dầu khí.

Ngày 26/11/1981, Ocean Ranger bắt đầu khoan giếng J-34, là giếng thứ ba ở mỏ dầu Hibernia. Cùng hoạt động với nó còn có 2 giàn khoan khác nhỏ hơn là giàn Sedco 706, nằm cách Ocean Ranger 13,7km về phía Bắc -Đông Bắc và giàn Zapata Ugland ở phía Bắc, cách Ocean Ranger 30,9km.

DIỄN TIẾN THẢM HỌA

Sáng 14/2/1982, đúng vào ngày Lễ Tình nhân, Công ty Nordco Ltd, chịu trách nhiệm về dự báo thời tiết trên Đại Tây Dương gửi một thông báo khẩn cấp đến cả 3 giàn khoan, cảnh báo về một cơn bão lớn kèm theo lốc xoáy đang hướng về vùng biển Grand Banks. Theo quy định, mỗi khi có bão, các giàn khoan sẽ phải treo ống khoan ở đầu giếng dưới biển và ngắt kết nối ống nâng khỏi thiết bị khoan. Tuy nhiên, do cơn bão ập đến rất nhanh, sóng cao từ 17 đến 20m nên các kỹ sư trên giàn Ocean Ranger buộc phải cắt ống khoan sau khi treo máy. Đến 2 giờ chiều, họ ngắt kết nối ống nâng.

Năm giờ chiều, phòng điều khiển trung tâm báo cáo trưởng giàn rằng đèn chiếu ở cửa sổ và cửa nóc bị sóng đánh tung do nó chỉ được thiết kế ở độ cao 8,5m. Trong lúc ấy, giàn Sedco 706 gần đó bị một cơn sóng lớn làm hư hỏng một số vật dụng trên boong, thuyền cứu sinh bị nước cuốn đi mất.

Bảy giờ tối, giàn khoan Sedco 706 và giàn Zapata Ugland nghe được những cuộc điện đàm nội bộ của giàn Ocean Ranger. Theo đó, một con sóng lớn cao 20m đã đánh thẳng vào Ocean Ranger, làm vỡ các cửa sổ trong phòng điều khiển chấn lưu khiến bảng điều khiển bị thấm nước, các mạch điện không hoạt động được. Vẫn theo những cuộc điện đàm nội bộ được Sedco 706 và Zapata Ugland nghe thấy, vài phút sau đó, những người ở phòng điều khiển chấn lưu phát hiện đèn báo trên bảng mô phỏng nhấp nháy từ màu đỏ sang xanh lục và ngược lại khiến họ tin rằng các van trong phao chìm dưới nước đang tự đóng mở. Do không tìm được nguyên nhân nên 8 giờ tối, họ cắt nguồn điện dẫn đến bàn điều khiển để buộc các van đóng lại.

Mười một giờ khuya, chẳng hiểu vì lý do gì mà các nhân viên trong phòng điều khiển lại khôi phục nguồn điện. Các cuộc điều tra về sau cho thấy chính việc khôi phục lại nguồn điện trong bảng điều khiển đã khiến các van ở mũi phao chìm mở ra. Nước tràn vào phao chìm khiến cả giàn khoan nặng 25.000 tấn chúi xuống.

Một giờ 52 phút sáng 15/2, một cuộc gọi cấp cứu được gửi đi từ giàn khoan Ocean Ranger kèm theo đó là danh sách những hư hỏng nghiêm trọng. Đây là cuộc liên lạc đầu tiên của Ocean Ranger kể từ khi cơn bão xảy ra. Ngay lập tức, Cơ quan cứu hộ Canada điều tàu M/V Seaforth Highlander cùng các máy bay trực thăng tìm cách tiếp cận Ocean Ranger. Bên cạnh đó, 2 tàu dự phòng là M/V Boltentor và M/V Nordertor thuộc 2 giàn khoan Sedco 706 và Zapata Ugland cũng được lệnh lên đường hỗ trợ. Tuy nhiên, do cường độ của cơn bão quá mạnh, không một chiếc tàu cũng như không một máy bay trực thăng nào đến được giàn khoan Ocean Ranger ở khoảng cách đủ để thực hiện việc cứu hộ an toàn.

Hai giờ sáng, Ocean Ranger truyền đi thông điệp cuối cùng của mình: “Sẽ không còn liên lạc vô tuyến từ Ocean Ranger. Chúng tôi sẽ tìm cách đến các trạm cứu hộ”.  Và mặc dù tất cả các giàn khoan đều được cung cấp sổ tay hướng dẫn thủ tục khẩn cấp - trong đó nêu cụ thể từng chi tiết của quy trình sơ tán - nhưng đến nay vẫn chưa rõ việc thoát hiểm trên giàn Ocean Ranger đã được thực hiện như thế nào...

VŨ CAO

(Theo History-Ocean Ranger Disaster)

 
;
.