Diego Forlan - Tấm gương mẫu mực về quyết tâm, nghị lực

Thứ Sáu, 13/11/2020, 20:07 [GMT+7]
In bài này
.

Diego Forlan (ảnh) bắt đầu sự nghiệp bóng đá ở tuổi 13 nhưng tới 18 tuổi mới đá trận chính thức đầu tiên. Mãi tới 25 tuổi anh mới chứng tỏ được tài năng và có kỳ World Cup hay nhất sự nghiệp ở tuổi 31. Forlan là tấm gương mẫu mực về việc quyết tâm, nghị lực.

Gulit - tiền vệ tài hoa của cơn lốc màu da cam.
Forlan - huyền thoại bóng đá Uruguay.

BƯỚC CHẬM NHƯNG KHÔNG ĐI LÙI

Năm 2019, ở tuổi 40, Forlan tuyên bố giải nghệ. Suốt sự nghiệp quần đùi áo số, Forlan đã đối mặt với vô số chướng ngại vật, những nỗi thất vọng chán chường. Nhưng anh vẫn lầm lũi bước về phía trước. Bởi với Forlan, bóng đá không chỉ đơn thuần là một cái nghề.

Nhìn vào thống kê 274 bàn qua 698 trận ở cấp CLB và 36 bàn qua 112 trận ở cấp độ đội tuyển quốc gia. Khác với các ngôi sao bóng đá thế hệ 7x vốn ăn tập bóng đá từ nhỏ với định hướng sự nghiệp rõ ràng, Forlan khởi đầu muộn hơn rất nhiều. Anh bắt đầu ở tuổi 13, đá trận chính thức đầu tiên trong sự nghiệp cho Independiente (Argentina) năm 18 tuổi, hai năm sau khi sang thử việc và bị CLB Nancy của Pháp từ chối.

Trong 4 năm khoác áo Indipendiente, Forlan đạt hiệu suất ấn tượng với một cầu thủ trẻ: 40 bàn qua 91 trận. Các tuyển trạch viên của bóng đá Anh không thể bỏ qua tài năng trẻ này và tới kỳ chuyển nhượng tháng 1/2002, Forlan lần thứ hai tới châu Âu để khoác áo Middlesbrough. Independiente đồng ý bán Forlan với giá 6,9 triệu bảng cho CLB Anh với tổng cộng 18 đợt thanh toán và thương vụ này chỉ còn thiếu chữ ký của cầu thủ người Uruguay. Bước ngoặt bất ngờ xảy ra vào phút chót khi M.U nhảy vào và đề nghị trả Independiente 6,9 triệu bảng và thanh toán một lần. Sau 4 giờ đàm phán và được các quan chức M.U chào mời bằng điều khoản cá nhân hậu hĩnh hơn đề xuất của Middlesborough, Forlan quyết định khoác áo “Quỷ Đỏ”.

Ngày 22/1/2002, anh ký hợp đồng bên cạnh Sir Alex Ferguson và chỉ một tuần sau đó, anh đá trận ra mắt M.U khi vào sân thế chỗ... Ole Gunnar Solskjaer. M.U hôm đó hạ Bolton 4-0, nhưng Forlan không ghi bàn. Anh tịt ngòi không chỉ ở trận cầu đó, mà còn im tiếng suốt phần còn lại của mùa giải, dù được trao cơ hội tại cả Ngoại hạng Anh lẫn Champions League. Trong hơn 2 năm khoác áo M.U, anh chưa khi nào đem lại cảm giác tin cậy như chân sút chủ lực Van Nistelrooy hay thậm chí “siêu dự bị” Solskjaer. Sau 98 trận đấu với chỉ vỏn vẹn 17 bàn, Forlan tạm biệt sân Old Trafford để sang Tây Ban Nha khoác áo Villareal.

THĂNG HOA KHI SANG LA LIGA

Khi chiêu mộ Forlan, Villareal có lẽ không nghĩ rằng sẽ có một món hời, với giá 3,2 triệu euro (3,54 triệu USD). Forlan ghi bàn ngay trận ra mắt trước Valencia và trở thành một hiện tượng của mùa giải 2004-2005. Anh ghi hàng loạt bàn thắng quan trọng, trong đó có tới 5 bàn vào lưới gã khổng lồ Barca. Nhờ chuỗi bàn thắng ấn tượng của Forlan, Villareal lần đầu tiên trong lịch sử giành vé dự Champions League khi mùa giải kết thúc. “Món hàng hớ” của M.U kết thúc mùa giải đầu tiên trên đất Tây Ban Nha với 25 bàn sau 39 trận, nhiều hơn 8 bàn so với tổng số bàn thắng của anh trong hai mùa khoác áo “Quỷ Đỏ”. Vượt qua những chân sút lừng danh như Ronaldo, Fernando Torres hay Samuel Eto’o, Forlan giành giải Pichichi cho cầu thủ ghi bàn nhiều nhất La Liga, đồng thời chia sẻ giải Chiếc giày Vàng châu Âu cùng Thierry Henry của Arsenal.

Mùa hè 2007, Atletico Madrid bỏ ra 21 triệu euro (23,25 triệu USD) để đưa Forlan về thay thế chủ công Torres chuyển sang Liverpool. Anh tiếp tục ghi những bàn thắng quan trọng để giúp Atletico lọt vào Champions League lần đầu tiên trong thế kỷ 21. Mùa giải 2008-2009 là thời điểm Forlan bùng nổ với 32 bàn sau 33 trận và lần thứ hai đoạt cú đúp danh hiệu Pichichi cùng Chiếc giày Vàng châu Âu.

Chân sút của Atletico trải qua một mùa giải thành công rực rỡ với 28 bàn, trong đó có 6 bàn tại Europa League để đưa đội nhà lên ngôi vô địch. Trong trận chung kết Europa League trước Fulham, Forlan ghi cả 2 bàn giúp Atletico thắng 2-1, còn bản thân được bầu làm Cầu thủ hay nhất trận.

Những tưởng đó sẽ là đỉnh cao của Forlan trong năm 2010, song tiền đạo này tiếp tục mang lại những bất ngờ tại World Cup 2010. Từ một đội bóng không được đánh giá quá cao trước giải, Uruguay thẳng tiến vào bán kết với điểm tựa là hàng công xuất chúng. Nếu Suarez cho thấy sự tinh quái trong lối chơi và sẵn sàng dùng tiểu xảo chơi bóng bằng tay trước Ghana, thì Forlan lại là linh hồn trong mọi đường lên bóng của đội bóng Nam Mỹ.

Anh cho thấy những phẩm chất của một tiền đạo hàng đầu thế giới: chạy không biết mệt, sút tốt bằng cả hai chân và nhạy cảm với bàn thắng. Trừ bàn thắng từ chấm phạt đền trước chủ nhà Nam Phi, cả 4 bàn còn lại của Forlan tại World Cup 2010 đều là những siêu phẩm. Anh sút xa tung nóc lưới Nam Phi và Hà Lan, đá phạt kỹ thuật hạ gục Ghana và tung người vô-lê vào lưới Đức trong trận tranh giải Ba. Không chỉ xuất sắc trong lối chơi, tinh thần rực lửa và những bước chạy không biết mệt mỏi của Forlan đã truyền cảm hứng cho toàn bộ tuyển Uruguay và những người say mê bóng đá tấn công. Anh nhận giải Quả Bóng Vàng cho cầu thủ hay nhất giải và Vua phá lưới World Cup 2010, cũng như bàn thắng đẹp nhất giải với pha bay người dứt điểm vào lưới tuyển Đức.

HUYỀN THOẠI BÓNG ĐÁ URUGUAY

Năm 2010 còn tiếp diễn ngọt ngào với Forlan khi anh cùng Atletico Madrid đoạt Siêu Cup châu Âu nhờ chiến thắng trước Inter Milan. Chỉ một năm sau đó, Forlan sang Italy khoác áo chính Inter với kỳ vọng thay thế Eto’o. Nhưng lần này, anh không thể tái hiện thành công như khi lấp đầy khoảng trống của Torres tại Atletico trước kia. Trong 20 trận cùng Inter, Forlan ghi vỏn vẹn 2 bàn. Khi bị Inter sớm chấm dứt hợp đồng và chuyển tới Internacional của Brazil, Forlan khẳng định trên Goal: “Tại Inter, tôi đã phải chơi một vị trí mà tôi chưa từng chơi trước đó. Giờ tôi hy vọng rằng mình sẽ lại được chơi vị trí sở trường là tiền đạo tại đây”.

Inter là đội bóng châu Âu cuối cùng mà Forlan khoác áo, và trong những năm tháng cuối sự nghiệp, anh giống một gã du mục. Sau 2 năm gắn bó cùng Internacional, Forlan tới Nhật Bản khoác áo Cerezo Osaka 2 mùa giải rồi trở về quê nhà chơi cho Penarol. Hai mùa giải cuối sự nghiệp của Forlan diễn ra tại châu Á, lần lượt với Mumbai City rồi Kitchee.

Ước mơ được giải nghệ tại Uruguay của Forlan đã không thành, song với người dân nước này, Forlan xứng đáng được xem như một huyền thoại. Sau khi là niềm cảm hứng của năm 2010, Forlan tiếp tục đóng góp vào chức vô địch Copa America 2011 của Uruguay. Tại giải đấu mà Suarez chính thức lĩnh xướng hàng công và nhận giải Cầu thủ hay nhất, Forlan vẫn biết cách để lại dấu ấn.

Anh chỉ ghi 2 bàn trong suốt giải đấu, nhưng đó là hai bàn thắng giúp Uruguay đánh bại Paraguay 3-0 trong trận chung kết. Hãng Reuteurs thống kê rằng các bàn thắng này giúp Forlan trở thành cầu thủ ghi bàn nhiều nhất lịch sử bóng đá Uruguay với 31 bàn, đồng thời tiếp nối truyền thống của cha ông khi cả ba thế hệ gia đình Forlan đều từng là những nhà vô địch Nam Mỹ.

Sau Copa America 2011, Forlan còn tham dự thêm một kỳ Confederations Cup 2013 và World Cup 2014. Tới tháng 3/2015, anh từ giã đội tuyển quốc gia, để lại sau lưng nhiều thành tích hiển hách với 36 bàn sau 112 trận.

Tại mọi nơi anh đi qua, Forlan đều cho thấy sự quyết tâm và nỗ lực. Tờ New York Times nhận định rằng Forlan chơi bóng không chỉ cho bản thân. “Điều truyền động lực cho Forlan không chỉ là chơi bóng và cố ghi bàn. Anh ấy hoạt động vì quỹ thiện nguyện của chị gái nhằm tránh tai nạn tại Uruguay, là người đại diện UNICEF và còn cố gắng cải thiện cuộc sống cho người tàn tật. Forlan có thể là người bại trận hôm nay, nhưng anh là người chiến thắng của giải đấu này và cả trong cuộc đời”, báo Mỹ này viết khi Forlan dừng bước tại bán kết World Cup 2010.

CHƯƠNG NGUYỄN

 
;
.