Con đường Di sản Văn hóa Sa Huỳnh

Thứ Sáu, 24/03/2023, 09:27 [GMT+7]
In bài này
.

Di tích Văn hóa Sa Huỳnh được xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt có ý nghĩa rất quan trọng. Đây là cơ hội để Quảng Ngãi tiếp tục đề ra giải pháp bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị đặc biệt của di tích. Đồng thời, xây dựng Bảo tàng Văn hóa Sa Huỳnh để hình thành điểm kết nối quan trọng của “Con đường Di sản Văn hóa Sa Huỳnh” ở miền Trung Việt Nam.

Địa danh Sa Huỳnh là phạm trù danh xưng văn hóa dân gian dùng để chỉ một vùng đất có cửa biển Sa Huỳnh. Vùng lõi trung tâm là thương cảng Sa Huỳnh có truyền thống giao thương hàng hải từ lâu đời, bao quanh là làng biển kéo dài từ phía bắc đầm An Khê (Phổ Khánh) đến phía nam là Châu Me, Tấn Lộc kéo dài giáp với Bồng Sơn (Bình Định). Nổi bật ở đây là dải cồn cát vàng chạy dài ven biển theo hướng bắc nam, có các di chỉ khảo cổ cư dân văn hóa Sa Huỳnh, Champa. Nguồn gốc danh xưng Sa Huỳnh có thể bắt nguồn từ thời văn hóa Champa.

Ngược dòng lịch sử

Đầu thế kỷ 20, các nhà khảo cổ người Pháp như  M.Vinet, M.Colani, O.Jansee, J.Maleret, J.Labarre đến khảo sát phát hiện, khai quật các khu mộ chum của cư dân tiền sử. Năm 1909, M.Vinet đã phát hiện và thông báo trong Tập san của Trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp (B.E.F.E.O) về một kho chum tìm thấy ở Sa Huỳnh, khoảng 200 chiếc bên trong chứa những chiếc nồi, bình bằng gốm và những đồ trang sức bằng đá quý, thuỷ tinh.

Năm 1923, bà La Barre khai quật tại Phú Khương, Thạnh Đức và H.Parmentier chỉnh lý và công bố trên B.E.F.E.O, định danh là “kho chum Sa Huỳnh" (Dépôts de jarres à Sahuynh).  Năm 1934, bà M.Colani đã đến khảo sát và khai quật 55 chum ở Thạnh Đức, 187 chum ở Phú Khương, Phú Lu,  Đồng Phú (Sa Huỳnh - Quảng Ngãi), Tăng Long (Bình Định). Kết quả khai quật được bà nghiên cứu và công bố rải rác trong hội nghị Tiền sử Viễn Đông, họp tại Manila (Philippin) năm 1935 và đăng trong Tập san của Trường Viễn Đông bác cổ Pháp.

Năm 1936, trong bài viết "Ghi chú về tiền sơ sử Quảng Bình", nhân phát hiện mộ chum ở Cổ Giang và Cương Hà đăng trên tạp chí "Những người bạn Huế xưa", bà M.Colani lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ "Văn hóa Sa Huỳnh". Bà viết như sau: "Bằng vào các tóm tắt và các mô tả trên, người ta thấy rằng nền văn hóa cạnh Đồng Hới này có những điểm gần gũi với văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Đông Sơn".

Như vậy, thuật ngữ Văn hóa Sa Huỳnh mà bà M.Colani đề xuất nhằm để chỉ dạng văn hóa vật chất của cư dân tiền sử với đặc trưng táng tục mộ chum chôn thành các nghĩa địa lớn được khai quật ở vùng đất Sa Huỳnh (nay thuộc phường Phồ Thạnh, TX.Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi). Hiện nay, có 3 di tích khảo cổ quan trọng là Long Thạnh (phường Phổ Thạnh), Phú  Khương (xã Phổ Khánh), Thạnh Đức (phường Phổ Thạnh) cùng phân bố trên dải cồn cát ven biển chạy theo hướng bắc nam, phía đông là Biển Đông, phía tây là dải Trường Sơn hùng vĩ.  

 

Tại Quảng Ngãi, bắt đầu từ năm 1977, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã khảo sát phát hiện, khai quật di chỉ cư trú ở ngay tại Sa Huỳnh. Đó là địa điểm khảo cổ Long Thạnh, nằm ở phía đông bờ đầm An Khê. Điểm di tích còn có tên gọi là gò Ma Vương.

Tại đây, vào tháng 4/1977, Nguyễn Thành Trai, Trịnh Dương và Đỗ Đình Truật (Viện Khảo cổ), đã khảo sát và đào thám sát một hố 6m x 4m = 24m2, tầng văn hóa hố thám sát cho thấy có hai lớp cư trú sớm - muộn. Theo những người thám sát, từ độ sâu 0m đến 1,37m là lớp cư trú muộn, từ 1,78m đến 2m là lớp cư trú sớm, hai lớp cư trú ngăn cách với nhau bởi lớp cát vô sinh dày 0,41m. Từ phát hiện này đã đem lại thông tin mới về một giai đoạn sớm của Văn hoá Sa Huỳnh gây xôn xao giới khoa học.

Nhiều bí ẩn tiếp tục được khám phá

Đến tháng 5/1977, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam tiến hành khai quật 2 hố đào, với diện tích 300m2. Hố thứ nhất nằm ở phía nam gò, hố thứ hai nằm ở phía bắc gò, trong một cuộc khai quật này đã phát hiện 3 mộ chum ở hố hai và một mộ chum ở hố một. Những người khai quật đã ghi nhận tầng cuối cùng ở độ sâu 1,80m của hố một chứa một số mảnh gốm, di cốt động vật, vỏ sò ốc, than tro nên khó xác định đây là nơi tạm cư hay là cư trú lâu dài của chủ nhân di tích này.

Năm 1978, Viện Khảo cổ học Việt Nam tiến hành khai quật Long Thạnh ở hai hố đào có diện tích 150m2 tìm thấy khu cư trú có tầng văn hoá dày trên 2m và một khu mộ táng với 16 mộ chum gốm.  Kết quả khai quật năm 1978 phát hiện lớp cư trú giai đoạn sớm của Văn hóa Sa Huỳnh, hay còn gọi là tiền Sa Huỳnh Long Thạnh

Làm sáng tỏ những nhận định trước đây

Tháng 5/1994, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam hợp tác với Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Quảng Ngãi trở lại đào 2 hố thám sát tại Gò Ma Vương (Long Thạnh). Hố thám sát 1 đã xác định tầng văn hóa của khu cư trú dày 0,90m đến 1,10m. Tại hố đào này đã phát hiện được tầng vô sinh ngăn cách giữ 2 lớp văn hóa dày từ 0,16m đến 0,20m. Gốm trong hố đào là những mảnh vỡ của dụng cụ sinh hoạt: nồi, bát, bình... đặc trưng văn hóa về loại hình, hoa văn diễn biến từ sớm đến muộn.

Ngoài ra, trong hố thám sát 1 phát hiện trong tầng cư trú 1 lưỡi cuốc đá bị vỡ còn phần thân lưỡi và con dấu tròn, bề mặt khắc rãnh vòng, đường kính 2 cm. Con dấu này tìm thấy khá phổ biến ở văn hóa Hoa Lộc. Hố thám sát 2 phát hiện một chum gốm nằm sâu 0,4m (từ mặt đất đến miệng chum), chum có dạng hình trứng, có nắp đậy bát bồng lớn, thân chum trang trí văn thừng, đồ tùy táng trong chum gồm: 4 bình lọ hoa gốm hình con tiện, một lưỡi câu hình thang và 1 vòng trang sức bằng đá.

Năm 2010, thực hiện dự án Bảo tồn tôn tạo và phát huy giá trị văn hóa Sa Huỳnh của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, ông Đoàn Ngọc Khôi phụ trách thăm dò khu vực di tích Long Thạnh nhằm xác định vị trí khu mộ táng và khu cư trú của di tích để xây dựng bảo tàng ngoài trời. Kết quả thăm dò xác định 2 vị trí cư trú và mộ táng để tôn tạo, về nhận thức diễn biến tầng văn hóa Long Thạnh cũng giống như các đợt khai quật trước đó, hiện vật thu được là bôn đá hình răng trâu, sinh thực khí nam.

Nơi xác lập tên gọi Văn hóa Sa Huỳnh

Di tích Quốc gia đặc biệt Văn hóa Sa Huỳnh là nơi phát hiện đầu tiên và xác lập tên gọi Văn hóa Sa Huỳnh, được các nhà khảo cổ học khai quật nghiên cứu trong suốt thế kỷ 20.  Văn hóa Sa Huỳnh là văn hóa khảo cổ thuộc thời đại kim khí có táng thức cơ bản là mộ chum, không gian phân bố rộng, từ phía bắc Quảng Bình vào đến phía nam Bình Thuận; từ triền Đông Trường Sơn liền với Tây Nguyên vươn ra các đảo gần bờ như Cù Lao Chàm, Cù Lao Ré, Bình Ba, Phú Quý, Thổ Chu...

Tuy nhiên, vùng lõi trung tâm của văn hóa Sa Huỳnh vẫn là Quảng Ngãi, Quảng Nam và bắc Bình Định. Trong đó, quần thể di tích Long Thạnh, Phú Khương, Thạnh Đức giữ vai trò trung tâm, là nơi phát hiện đầu tiên về Văn hóa Sa Huỳnh và lấy địa danh Sa Huỳnh đặt tên cho nền văn hóa này.

Di chỉ cư trú Long Thạnh Văn hóa Sa Huỳnh qua địa tầng đã đưa ra bằng chứng khoa học xác thực để khẳng định tính bản địa của Văn hóa Sa Huỳnh. Đây là dòng chảy văn hóa tiền Sa Huỳnh phát triển trực tiếp lên Sa Huỳnh sơ kỳ sắt, từ đó khẳng định tính bản địa của Văn hóa Sa Huỳnh là văn hóa khảo cổ được hình thành, phát sinh, phát triển ngay trên dải đất miền Trung Việt Nam; là cơ sở khoa học quan trọng để bác bỏ lý thuyết du nhập văn hóa hay trôi dạt văn hóa của các nhà khảo cổ học Phương Tây trước đây khi nghiên cứu Văn hóa Sa Huỳnh.

Bộ sưu tập đồ trang sức Sa Huỳnh sơ kỳ sắt Thạnh Đức, Phú Khương với loại khuyên tai 3 mấu chế tác từ đá nephrit, thủy tinh, hạt chuỗi mã não, ống chuỗi nephrit. Bộ sưu tập đồ gốm đặc trưng với loại đèn gốm Sa Huỳnh cùng các loại đồ đựng khác như nồi, bình, vò, bát bồng mà W.G.SolheimII đã tìm thấy quan hệ giao lưu về kỹ thuật và loại hình với gốm Kalanay (Philippin).

Như vậy, từ Long Thạnh hay giai đoạn Long Thạnh sơ kỳ đồng thau tiền Sa Huỳnh phát triển lên Sa Huỳnh sơ kỳ sắt, tiến trình này các nhà khảo cổ học Việt Nam gọi là “Con đường Sa Huỳnh” đã mang lại khối lượng di tích, di vật vô cùng đồ sộ, đem lại nhiều thông tin tư liệu hết sức có giá trị, ý nghĩa trong nghiên cứu Văn hoá Sa Huỳnh. Thông qua các di tích tiền Sa Huỳnh, Sa Huỳnh được phát hiện và nghiên cứu, các nhà khảo cổ Việt Nam chứng minh rằng, Văn hoá Sa Huỳnh từ nguồn gốc đa tuyến, đó là tuyến Tây Nguyên tràn xuống duyên hải miền Trung vào khoảng cuối hậu kỳ đá mới gặp gỡ với tuyến Bàu Tró và các tuyến văn hóa khác để tạo nên Văn hoá Sa Huỳnh.

Phát huy giá trị di tích

Năm 1939, khi O. Janse đến khảo sát khai quật Sa Huỳnh, ông mô tả như sau “Sa Huỳnh là một làng chài có bến nước tự nhiên rất an toàn, ở đó có những dãy núi xanh vươn ra biển, hai bên bờ cát đẹp tuyệt vời. Ngôi làng với bãi cát dọc bờ biển này được bao bọc bởi một cánh đồng lúa trải dài về phía những dãy núi cao gần đó, dải núi Trường Sơn”. Nghĩa là, địa hình vùng phân bố di tích Sa Huỳnh là núi lan ra biển, dải cát vàng chạy dài thoai thoải theo hướng bắc nam, từ Phú Khương cho đến Thạnh Đức đã ngăn cách biển và khu đầm nước ngọt An Khê, hoặc nước mặn Tân Diêm ở phía bên trong. Đây là cảnh quan cư trú của người Sa Huỳnh, ngoài giá trị di tích khảo cổ, vẻ đẹp của thắng cảnh Sa Huỳnh đã thu hút các nhà khảo cổ học Phương Tây.

Hàng nghìn năm qua, dải cồn cát Sa Huỳnh, nơi chứa đựng các di tích khảo cổ học mang tầm quốc tế và khu vực vẫn giữ nguyên vẹn vẻ nguyên sơ, chưa có những tác động xâm hại. Trên dải cồn cát Long Thạnh, Phú Khương, Thạnh Đức là rừng cây phi lao phòng hộ chắn gió cát ven biển, phía trong là đầm nước ngọt An Khê có diện tích khoảng 100 ngàn hecta, là nguồn nước ngọt phong phú cùng các loại thủy sản cung cấp cho cuộc sống của cư dân Văn hóa Sa Huỳnh sống trên dải cồn cát ven bờ đầm.

Dự án đã tôn tạo di tích Long Thạnh (gò Ma Vương) đã phục hồi hai hố khai quật năm 1978. Đó là hố số 8 và hố số 10 thuộc dự án (tức hố H1 và hố H2 do Viện Khảo cổ khai quật năm 1978), hố số 8 trưng bày nguyên trạng diễn biến tầng văn hóa Long Thạnh, hố số 10 là hố phục chế lại khu mộ chum khai quật của hố H2 năm 1978. Cả hai hố trưng bày ngoài trời đều có mái che và lối đi lại tham quan cho du khách. Dự án còn xây dựng bia di tích cho các  di tích Văn hóa Sa Huỳnh, trong đó có di tích Long Thạnh, Phú Khương, Thạnh Đức nhằm giới thiệu cho du khách tham quan biết đến di tích.

Về Nhà bảo tàng Văn hóa Sa Huỳnh, dự án đã đầu tư xây dựng nhà bảo tàng có quy mô lớn, nằm bờ nam của đầm An Khê và nằm liền kề với di tích, bên trong nhà bảo tàng trưng bày hiện vật, hình ảnh, tài liệu gồm ba phần: Lịch sử phát hiện, nghiên cứu Văn hóa Sa Huỳnh, giới thiệu những nhà khoa học có công phát hiện và nghiên cứu Văn hóa Sa Huỳnh và các di tích Văn hóa Sa Huỳnh.  Văn hóa Sa Huỳnh ở Quảng Ngãi và miền Trung Việt Nam giới thiệu di tích, di vật, chủ nhân, niên đại và đặc trưng của Văn hóa Sa Huỳnh. Và mối quan hệ của văn hóa Sa Huỳnh và các văn hóa ở khu vực Đông Nam Á.

Mối quan hệ giữa di tích và nhà bảo tàng trong một không gian liền cạnh nhau sẽ tăng thêm sức hấp dẫn của di tích đối với khách tham quan. Khu vực nhà bảo tàng và di tích văn hóa Sa Huỳnh gắn liền với không gian đẹp bên đầm nước ngọt An Khê, tương lai được nối với đường ven biển Dung Quất - Sa Huỳnh sẽ tạo điều kiện cho du khách đến tham quan di tích.

Hiện nay, đường đi đến di tích rất thuận lợi, có đường nối liền QL 1 vào Khu di tích Sa Huỳnh. Tương lai, sẽ hình thành tuyến du lịch tham quan trên đầm An Khê và Khu di tích Sa Huỳnh bằng phương tiện ghe xuồng, ca nô đi lại trên mặt đầm. 

NGUYỄN THI (tổng hợp)

Nguồn Báo Quảng Ngãi

 

 

;
.