.
HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 70 NĂM CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ (1954-2024)

Điện Biên Phủ - Đỉnh cao nghệ thuật chiến tranh nhân dân

Cập nhật: 17:19, 21/04/2024 (GMT+7)

Trong cuốn “Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới”, Tổng Bí thư Lê Duẩn khẳng định: “Trận Điện Biên Phủ vĩ đại – đã được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa trong thế kỷ XX”. Vì sao?

Chiều 7/5/1954, lá cờ “Quyết chiến - Quyết thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam tung bay trên nóc hầm tướng De Castries. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã toàn thắng. Ảnh: TTXVN
Chiều 7/5/1954, lá cờ “Quyết chiến - Quyết thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam tung bay trên nóc hầm tướng De Castries. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã toàn thắng. Ảnh: TTXVN

Thực dân Pháp nổ phát súng đầu tiên xâm lược và cai trị nước ta vào năm 1858. Sau gần 100 năm bị áp bức, đô hộ của thực dân đế quốc, dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã làm nên kỳ tích Điện Biên Phủ 1954 - nơi được Tướng Pháp Henri Navarre xem là “pháo đài khổng lồ không thể công phá”. Trận chiến Điện Biên Phủ không chỉ là minh chứng cho cuộc đọ sức giữa chính nghĩa và phi nghĩa, giữa lực lượng quân đội hùng mạnh và tối tân nhất thế giới lúc đó của thực dân Pháp với Quân đội Việt Nam non trẻ mới chỉ ra đời trước đó 10 năm. Cũng chính điều này đã tạo nên ý nghĩa và giá trị lịch sử của chiến thắng “chấn động địa cầu”.

Nhìn lại lịch sử bảo vệ đất nước của các thế hệ ông cha cho thấy: Chiến thắng Bạch Đằng (1288) của quân dân nhà Trần đã kết thúc thắng lợi, cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông - một đế quốc hùng mạnh và tàn bạo nhất thế giới lúc bấy giờ. Quân dân nhà Trần trên dưới một lòng đã bảo vệ độc lập toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của Đại Việt.

Chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang (1427) của quân dân nhà Lê, bằng với tuyên bố hùng hồn của “Bình Ngô đại cáo” đã đánh bại hoàn toàn quân xâm lược nhà Minh, giành lại độc lập, tự chủ cho dân tộc.

Còn chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa (1789) lại là bản cáo chung cho quân xâm lược nhà Thanh. Đại quân Tây Sơn của Nguyễn Huệ đã quét sạch quân xâm lược từ Đàng Trong ra Đàng Ngoài, nhất thống Bắc - Nam.

Mỗi chiến thắng đều là bước ngoặt lịch sử của dân tộc, đánh bại hoàn toàn kẻ thù xâm lược, mở ra một trang sử mới cho đất nước. Vì thế, Chiến thắng Điện Biên Phủ sau 9 năm ròng rã quân dân “khoét núi ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt, máu trộn bùn non” đã chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp kéo dài từ thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX và “đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc”.

So sánh Chiến thắng Điện Biên Phủ với Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa không chỉ về ý nghĩa lịch sử, giá trị độc lập, tự do mang lại cho dân tộc mà còn bởi quy mô, hào khí và việc vận dụng tài tình chiến lược quân sự lấy dân làm gốc, sau này gọi là chiến tranh nhân dân. Từ tướng sĩ của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đến Nghĩa quân Lam Sơn của Lê Lợi; từ Nghĩa quân Tây Sơn của Quang Trung đến Bộ đội Cụ Hồ, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến sau này… đều từ Nhân dân mà ra, vì Nhân dân mà chiến đấu, vì Nhân dân mà hy sinh.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mà kết thúc bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là một cuộc kháng chiến được thực hiện ngay sau khi đất nước vừa giành độc lập, vị thế chính trị chưa vững chắc, ngân khố cạn kiệt, nhân dân đói khổ, lực lượng vũ trang nhỏ yếu, giặc đói, giặc dốt bủa vây. Vì thế, Đảng ta, quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và tổng chỉ huy của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã vận dụng sáng tạo và linh hoạt đường lối chiến tranh toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính, kết hợp lực lượng chính trị hùng hậu của quần chúng cách mạng với lực lượng vũ trang, tạo nên “vành hoa đỏ, thiên sử vàng” cho Việt Nam trong thế kỷ XX.

Đến tận hôm nay, sau 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, thế giới và các thế hệ người dân Việt Nam vẫn không ngừng phân tích, lý giải: Vì sao một đất nước nhỏ bé lại có thể đánh thắng một kẻ thù xâm lược hùng mạnh và hung hãn của thế giới lúc bấy giờ? Vì sao những chàng trai, cô gái chân đất, áo vải lại giành chiến thắng trước đội quân tinh nhuệ được trang bị vũ khí, khí tài tối tân? Vì sao những chiếc xe đạp thồ lại chiến thắng cả xe vận tải, máy bay? Vì sao những khẩu pháo được kéo lên núi cao, vực sâu bằng sức người lại chiến thắng xe tăng bọc thép? Rất nhiều câu hỏi vì sao? Đó không chỉ là những hành động anh hùng được tạo nên bởi những người nông dân bình dị. Đó không chỉ là tinh thần bất khuất, tuẫn liệt của lớp lớp thế hệ người dân Việt Nam. Đó cũng không phải là bản năng phản kháng thường thấy khi bị chà đạp. Đó thực sự là khát khao của cả một dân tộc về hoà bình, độc lập, tự do và quyền tự quyết. Đó là tình yêu đối với đất nước, lòng tự tôn đối với dân tộc, niềm tự trọng của nhân phẩm và thức tỉnh lương tri nhân loại.

Kỳ tích Điện Biên Phủ được dệt nên từ những kỳ tích anh hùng cá nhân. Đó là những con người bình dị, nhỏ bé trong nhân dân. Là “những đồng chí chèn lưng cứu pháo, nát thân nhắm mắt, còn ôm”, là “những bàn tay xẻ núi lăn bom, nhất định mở đường cho xe ta lên chiến trường tiếp viện”… Và đó không chỉ là bộ đội chủ lực, những chiến sĩ được huấn luyện chiến đấu mà còn là những thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến “chị gánh, anh thồ… anh hò, chị hát”, là những em bé thiếu niên, nhi đồng cùng tham gia giữ làng, giữ bản và dòng máu anh hùng luôn chảy trong huyết quản… Đó cũng chính là kỳ tích, là đỉnh cao của chiến tranh nhân dân.

Trong Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, Việt Nam đã huy động hơn 35 ngàn người vận chuyển, trên 20 nghìn xe đạp thồ để mang lên Điện Biên hơn 14 ngàn tấn vũ khí, lương thực, trang thiết bị.

Chiến thắng Điện Biên Phủ, đỉnh cao của chiến tranh nhân dân, “lừng lẫy năm châu” không chỉ vì chiến thắng oanh liệt trên chiến trường, của những cuộc đối đầu tưởng như không cân sức giữa một bên đế quốc hùng mạnh với trang bị vũ khí hiện đại và một bên là lực lượng quân dân một nước nhỏ yếu; càng không chỉ “chấn động địa cầu” bởi chiến thắng quân sự, chính trị, ngoại giao với việc chấm dứt ách đô hộ của thực dân Pháp trên đất Việt Nam và Hiệp định Genève được ký kết. Mà quan trọng hơn còn vì những kỳ tích được tạo nên bởi những con người bình dị với những hành động quả cảm kiên trung. Họ là những anh hùng từ nhân dân mà ra.

Không có pháo đài nào không thể công phá, chỉ có lòng dân và tinh thần dân tộc là bất khả xâm phạm. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh thời từng nói: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.

THANH HUYỀN

.
.
.