.
XÂY DỰNG ĐẢNG:

Kiểm soát quyền lực ngăn chặn lợi ích nhóm

Cập nhật: 19:55, 29/12/2017 (GMT+7)
Thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) gắn với Chỉ thị 05 ở mỗi chi bộ là giải pháp hiệu quả để chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Trong ảnh: Chi bộ Văn phòng trực thuộc Đảng bộ khối Văn phòng Tổng Công ty Bảo Đảm an toàn hàng hải miền Nam tổ chức sinh hoạt chi bộ trực tuyến. Ảnh: NGỌC NAM
Thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) gắn với Chỉ thị 05 ở mỗi chi bộ là giải pháp hiệu quả để chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Trong ảnh: Chi bộ Văn phòng trực thuộc Đảng bộ khối Văn phòng Tổng Công ty Bảo Đảm an toàn hàng hải miền Nam tổ chức sinh hoạt chi bộ trực tuyến. Ảnh: NGỌC NAM

Lợi ích nhóm theo cách hiểu phổ biến là một nhóm người lấy lợi ích của nhóm mình làm trung tâm, làm mục tiêu để hành động, xa rời lợi ích chung của nhân dân, đất nước. Đó là chủ nghĩa cá nhân, chỉ biết mình không đoái hoài đến lợi ích người khác.

Lợi ích nhóm thường liên quan đến người có chức, có quyền. Biểu hiện của lợi ích nhóm nổi cộm ở các vấn đề: trực tiếp bòn rút ngân sách Nhà nước, tài nguyên khoáng sản; tác động và làm sai lệch chính sách hoặc khai thác những khiếm khuyết chưa hoàn thiện trong chính sách của Nhà nước. Khi một đảng viên giữ trọng trách lãnh đạo mà đặt lợi ích cá nhân lên trên tập thể cũng có nghĩa không còn duy trì được nguyên tắc tổ chức của Đảng, dẫn đến sự vô hiệu hóa vai trò lãnh đạo của Đảng, không còn vị trí tiên phong của Đảng cầm quyền, làm giảm lòng tin của nhân dân với Đảng.

Khi một người đứng đầu cơ quan làm trái với quy định của Nhà nước thì không chỉ tác hại trong phạm vi đơn vị mà tùy mức độ và phạm vi của một ngành, một địa phương mà có thể ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực khác, thiệt hại khôn lường, không những mất tiền của mà mất cán bộ, gây ra tình trạng bức xúc trong xã hội.

Với một cán bộ đảng viên giữ trọng trách lãnh đạo hoặc đứng đầu một cơ quan nhưng chỉ mưu cầu lợi ích cá nhân, không ghép mình vào tổ chức, không chấp hành nguyên tắc tổ chức, làm trái các quyết định của tổ chức cũng có nghĩa đi ngược lại lợi ích của nhân dân. Những hiện tượng trên là biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” bắt nguồn từ sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, xa rời các nguyên tắc của Đảng. Sau khi lũng đoạn kinh tế, những cá nhân mưu cầu lợi ích nhóm sẽ tiến tới lũng đoạn chính trị. Vì vậy kiểm soát quyền lực của những người có chức, có quyền trở thành yêu cầu bức bách trong hệ thống chính trị của nước ta hiện nay.

Kiểm soát quyền lực phải thực hiện đồng bộ trong hệ thống chính trị, trước hết trong Đảng. Kiểm soát quyền lực trong Đảng chính là kiểm soát quyền lực cá nhân đảng viên, cán bộ có chức vụ trong các tổ chức Đảng, bộ máy Nhà nước bằng kiểm tra, giám sát. Việc kiểm tra, giám sát này trước hết thuộc về của tổ chức cấp ủy Đảng, người đứng đầu cấp ủy. Việc kiểm tra tiến hành 3 khâu quan trọng: sự giám sát, kiểm tra của cấp ủy; kiểm tra, giám sát của cấp trên đối với cấp dưới và của cấp dưới đối với cấp trên; giám sát của người dân đối với tổ chức Đảng và đảng viên. Trong đó khâu quan trọng nhất là sự kiểm tra, giám sát của tổ chức Đảng với đảng viên. Bởi trong hệ thống chính trị nước ta hầu hết cán bộ cao cấp, người đứng đầu các cơ quan Nhà nước, đoàn thể là đảng viên, được cấp ủy giới thiệu tham gia ứng cử vào cơ quan và tham gia cấp ủy của cơ quan đó. Nếu những người này bị tha hóa biến chất, lợi dụng quyền lực để lộng hành, thậm chí “tự diễn biến” “tự chuyển hóa” thì trách nhiệm trước hết thuộc về các cấp ủy Đảng và người đứng đầu cấp ủy đó. Và một khi người đứng đầu cấp ủy bị tha hóa, biến chất thì trách nhiệm thuộc về cấp ủy cấp trên trực tiếp. Nên sự kiểm tra, giám sát của tổ chức Đảng rất quan trọng, việc này phải làm thường xuyên, định kỳ và đột xuất khi đảng viên có dấu hiệu vi phạm.

Giám sát của người dân được xác định từ bản chất quyền lực Nhà nước ta là của nhân dân. Giám sát của người dân thông qua việc thực thi rộng rãi quyền dân chủ; kể cả hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện và dân chủ tham dự; thông qua chế độ tranh cử, đề bạt và miễn nhiệm cán bộ; minh bạch thông tin và trách nhiệm giải trình của các tổ chức và cá nhân được giao quyền lực; sự giám sát của công luận, của nhân dân; tự do tư tưởng và tự do ngôn luận để thể hiện chính kiến của những con người tham gia làm chủ đất nước. Vấn đề đặt ra không mới, bởi Đảng ta đã xác định cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân.

Quyền lực phải được kiểm soát bằng chính quyền lực Nhà nước, quy định trong Hiến pháp và các luật liên quan về cơ cấu và chức năng, nhiệm vụ của bộ máy Nhà nước, trong đó có sự phân quyền giữa ba nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp, các nhánh ấy độc lập tương đối với nhau, giám sát chéo và điều chỉnh lẫn nhau, nhằm hạn chế sai lầm, hoặc khi có sai lầm thì được phát hiện và điều chỉnh, khắc phục sớm nhất.

TRẦN CÔNG HUYỀN

.
.
.